“Thiên Chúa Cha yêu thương các con”

(John 16:27)

 

Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

gửi Giới Trẻ Công Giáo cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới 14, Chúa Nhật Lễ Lá 28/3/1999

 

 

Qúi bạn trẻ thân mến!

 

1-             Trong chiều hướng Mừng Năm Thánh 2000 giờ đây đang gần đến, th́ năm 1999 có mục đích nhắm vào việc “mở rộng chân trời cho các tín hữu để họ thấy được các sự việc theo quan điểm của Chúa Kitô: quan điểm về ‘Cha là Đấng ở trên trời’, Đấng sai Chúa Kitô đến và là Đấng Chúa Kitô đă trở về với Ngài” (Tông Thư Ngàn Năm Thư Ba Đang Đến, đoạn 49). Thật vậy, không thể nào cử hành Chúa Kitô và cuộc mừng kỷ niệm của Người mà lại không cùng với Người hướng về Thiên Chúa là Cha của Người cũng là Cha của chúng ta (x.Jn.20:17). Chúa Thánh Thần cũng đưa chúng ta về với Chúa Cha và Chúa Giêsu. Nếu Thần Linh dạy cho chúng ta tuyên xưng “Đức Giêsu là Chúa” (x.1Cor.12:3) th́ cũng là để cho chúng ta có thể thưa cùng Thiên Chúa “Abba! Cha ơi!” (x.Gal.4:6).

                Cha cũng kêu gọi các con, cùng với toàn thể Giáo Hội, hăy hướng về Thiên Chúa là Cha và, bằng một tấm ḷng tri ân cảm mến, các con hăy lắng nghe lời mạc khải lạ lùng của Chúa Giêsu: “Chúa Cha yêu thương các con” (x.Jn.16:27). Đây là những lời Cha trao gửi đến các con như là một đề tài cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 14. Qúi bạn trẻ thân mến, qúi bạn hăy nhận lấy t́nh yêu mà Thiên Chúa đă yêu qúi bạn trước (x.1Jn.4:19). Qúi bạn hăy nắm chắc lấy điều ấy, một điều duy nhất có thể làm cho đời sống có ư nghĩa, sức mạnh và niềm vui: t́nh yêu của Ngài không bao giờ bỏ rơi qúi bạn, giao ước an b́nh của Ngài không bao giờ xa ĺa qúi bạn (x.Is.54:10). Ngài đă đóng mộc tên của qúi bạn trong ḷng bàn tay của Ngài (x.Is.49:16).

 

2-             Điều này không phải lúc nào cũng có thể cảm nhận thấy hay rơ ràng sáng tỏ, thế nhưng, trong cơi ḷng con người vẫn có một khát vọng sâu xa hướng về Thiên Chúa. Thánh I-Nhă thành Antiôkia đă diễn tả niềm khát vọng này một cách sống động như sau: “Trong tôi có một gịng nước sự sống đang rạo rực chảy: ‘Hăy đến cùng Chúa Cha’” (Ad Rom., 7). “Lạy Chúa, xin tỏ cho tôi quang vinh của Ngài” (Ex.33:18), Moisen khi ở trên núi đă nài xin với Thiên Chúa như thế.

                “Chưa có ai đă từng được thấy Thiên Chúa; Người Con duy nhất, Đấng ở trong ḷng Cha, là Đấng tỏ Cha ra” (Jn.1:18). Thế nên, không phải là chỉ cần biết Con là biết được Cha hay sao? Tông đồ Philiphê không dễ ǵ chấp nhận như vậy. Thánh nhân đă xin với Thày ḿnh: “xin tỏ cho chúng con biết Cha”. Việc khẩn khoản của thánh Philiphê tông đồ đă mang đến cho chúng ta một câu trả lời vượt trên tất cả những ǵ chúng ta có thể ước vọng: “Thày đă chẳng ở với con bấy lâu hay sao, thế mà con lại không biết Thày ư Philiphê? Ai thấy Thày chính là thấy Cha” (Jn.14:9).

                Việc Nhập Thể đă làm cho chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa nơi dung mạo con người: “Hăy tin vào Thày là Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày” (Jn.14:11). Chúa Giêsu nói lời này không những cho riêng tông đồ Philiphê mà c̣n cho tất cả những ai sẽ tin vào Người nữa. Và v́ thế, ai chấp nhận Con của Thiên Chúa là chấp nhận Đấng đă sai Người (x.Jn.13:20). Ngược lại, “ai ghét Thày cũng ghét cả Cha Thày nữa” (Jn.15:23). Thế là một mối liên hệ mới giữa Đấng Tạo Hóa và các tạo sinh của Ngài đă được h́nh thành, một mối liên hệ giữa con cái với Cha của ḿnh. Khi các môn đệ muốn đi vào các bí nhiệm của Thiên Chúa và xin dạy cho các vị biết cách cầu nguyện để hỗ trợ cuộc hành tŕnh của các vị, Chúa Giêsu đă đáp lại bằng việc dạy cho các vị Kinh Lạy Cha là “một tổng hợp toàn bộ Phúc Aâm” (Tertullianô, De Oratione, 1). Kinh Lạy Cha này là một lời xác nhận về t́nh trạng chúng ta được trở thành những người con nam nữ của Thiên Chúa (x.Lk.11:1-4). “Một mặt, qua những lời kinh này, Người Con duy nhất cống hiến cho chúng ta những lời Chúa Cha đă ban cho Người: Người là Tôn Sư dạy cầu nguyện. Mặt khác, là Lời nhập thể, Người biết trong cơi ḷng nhân loại của ḿnh các nhu cầu của anh chị em ḿnh và tỏ cho chúng ta thấy những nhu cầu ấy: Người là mô phạm cho việc cầu nguyện của chúng ta” (Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, số 2765).

                Khi tŕnh thuật cho chúng ta thấy các dấu chứng trực tiếp về đời sống của Người Con Thiên Chúa, Phúc Aâm Thánh Gioan cũng đă chỉ cho chúng ta thấy một con đường phải theo để biết được Chúa Cha. Việc kêu cầu cùng “Cha” là một bí mật, là hơi thở, là sự sống của Chúa Giêsu. Không phải hay sao, Người là Người Con duy nhất, là trưởng tử, là Đấng được Cha yêu, đối tượng mà mọi sự phải qui về, Người hiện diện nơi Chúa Cha ngay trước khi có thế gian, cùng thông phần vinh quang của Cha? (x.Jn.17:5). Từ nơi Cha ḿnh, Chúa Giêsu đă lănh nhận quyền năng trên tất cả mọi sự (x.Jn.17:2), lănh nhận sứ điệp cần phải được loan báo (x.Jn.12:49), lănh nhận công việc cần phải được hoàn thành (x.Jn.14:31). Chính các môn đệ cũng không phải là thành phần thuộc về Người: chính Cha là Đấng đă trao họ cho Người (x.Jn.17:9), khi ủy thác cho Người việc ǵn giữ họ khỏi gian ác, để không một ai trong họ phải bị hư đi (x.Jn.18:9).

                Vào giờ Người qua khỏi thế gian mà về cùng Cha, “lời nguyện tư tế” của Người đă cho chúng ta thấy tâm trí của Người Con: “Lạy Cha, xin Cha hăy tôn vinh Con nơi Cha thứ vinh quang mà Con đă có nơi Cha trước khi  thế gian được tạo thành” (Jn.17:5). Là Tư Tế Tối Cao và Vĩnh Hằng, Chúa Kitô đă dẫn đầu đoàn lũ đông đảo thành phần được cứu chuộc. Là trưởng tử của nhiều anh em, Người đă dẫn về một đàn chiên duy nhất thành phần chiên bị phân tán, để chỉ có “một đàn chiên và một chủ chiên” (Jn.10:16).

                Nhờ công việc của Người, chính mối liên hệ yêu thương hiện diện nơi Ba Ngôi đă được thể hiện nơi mối liên hệ giữa Chúa Cha và nhân loại được cứu chuộc: “Chúa Cha yêu thương các con!”. Mầu nhiệm yêu thương này làm sao có thể hiểu được nếu không có tác động của Thần Linh là Đấng Cha tuôn đổ xuống trên các môn đệ nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu (x.Jn.14:16)? Việc Lời Hằng Hữu Nhập Thể trong thời gian và việc của tất cả mọi người liên kết với Người trong Bí Tích Rửa Tội được sinh vào đời sống vĩnh cửu không thể nào hiểu nổi nếu không có tác động ban sự sống của chính vị Thần Linh này.

 

3-             “Thiên Chúa đă qúa yêu thương thế gian đến ban Người Con duy nhất của ḿnh, để ai tin vào Con th́ không phải chết song được sự sống trường sinh” (Jn.3:16). Thế gian được Thiên Chúa yêu thương! Và, bất chấp việc thế gian có thể chối từ  mối t́nh yêu này, thế gian vẫn tiếp tục được Ngài yêu thương cho đến cùng. “Chúa Cha yêu thương các con” luôn măi và cho đến muôn đời: đó là một điều mới mẻ chưa từng có, “một loan báo rất đơn thành song sâu xa mà Giáo Hội mắc với nhân loại” (x. Tông Huấn Christifideles Laici, đoạn 34). Cho dù Chúa Con chỉ cần ban cho chúng ta lời này th́ đă đủ rồi. “Hăy xem Chúa Cha đă yêu thương chúng ta biết bao, cho chúng ta được gọi là con cái của Thiên Chúa; và chúng ta thực sự là như vậy” (1Jn.3:1). Chúng ta không phải là thành phần mồ côi; t́nh yêu đă nẩy mầm. V́, như các con biết, chúng ta không thể nào yêu thương nếu chúng ta không được yêu.

                Thế nhưng, chúng ta phải làm sao để có thể loan báo tin mừng này? Chúa Giêsu đă chỉ cho chúng ta đường lối phải theo, đó là hăy lắng nghe Chúa Cha để được “Thiên Chúa dạy bảo” (Jn.6:45) và giữ các giới răn của Ngài (x.Jn.14:23). Nhờ đó kiến thức học được từ Chúa Cha này sẽ lớn lên: “Con đă tỏ Danh Cha cho họ, Con sẽ c̣n tỏ ra nữa” (Jn.17:26); và việc tỏ ra này là việc của Chúa Thánh Thần, ở chỗ Ngài sẽ dẫn chúng ta vào “tất cả sự thật” (x.Jn.16:13).

                Trong thời của chúng ta đây, hơn bao giờ hết, Giáo Hội và thế giới cần đến “các nhà truyền giáo” có khả năng loan báo, bằng lời nói cũng như gương mẫu, niềm xác tín sâu xa và an ủi ấy. Nhận thức được như vậy, hỡi thành phần trẻ của ngày hôm nay, cũng là thành phần người lớn của ngàn năm mới, các con hăy tự “luyện” ḿnh nơi trường học của Chúa Giêsu. Trong Giáo Hội, cũng như qua các hoàn cảnh khác nhau của đời sống ḿnh, các con hăy trở nên các chứng nhân có uy tín cho t́nh yêu của Chúa Cha! Các con hăy làm cho t́nh yêu này sáng tỏ nơi các quyết định và thái độ của các con, qua cách các con đối đăi với tha nhân và qua việc các con dấn thân phục vụ họ, trong việc các con trung thành tôn trọng ư muốn của Thiên Chúa cũng như các giới răn của Ngài.

                “Chúa Cha yêu thương các con”. Những lời tuyệt vời này được thốt lên trong cơi ḷng của tín hữu, thành phần mà, như người môn đệ được Chúa Giêsu thương, ngă đầu ḿnh vào ngực Chúa Giêsu để nghe thấy những ǵ mật thiết: “Ai yêu mến Thày sẽ được Cha Thày yêu thương, và Thày sẽ thương yêu họ và tỏ ḿnh ra cho họ” (Jn.14:31), v́ “sự sống đời đời là ở chỗ họ nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cha sai” (Jn.17:3).

                T́nh yêu của Chúa Cha được phản ảnh nơi các h́nh thức khác nhau của vai tṛ làm cha mà các con gặp thấy trong cuộc đời của các con. Cha đặc biệt nghĩ đến cha mẹ của các con, những vị cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh ra các con cũng như trong việc chăm sóc cho các con: các con hăy tôn kính các ngài (x.Ex.20:12) và hăy biết ơn các ngài! Cha nghĩ đến các vị linh mục và các người tận hiến cho Chúa, thành phần là bạn hữu của các con, là các nhân chứng sống và là các thày đời, “giúp các con tiến bộ và hân hoan trong đức tin” (Phil.1:25). Cha nghĩ đến các nhà giáo dục chân chính, thành phần đem nhân tính của ḿnh, sự khôn ngoan và đức tin của ḿnh để góp phần quan trọng vào việc phát triển của các con, một việc phát triển về Kitô Giáo cũng làm cho toàn thể con người các con được phát triển theo. Các con hăy luôn luôn biết cảm tạ Chúa về từng người trong thành phần đồng hành với các con trên con đường cuộc sống ấy.

 

4-             “Chúa Cha yêu thương các con”. Việc nhận thức được t́nh yêu đặc biệt của Thiên Chúa cũng không thể không làm cho tín hữu phấn khởi trong việc “chấp nhận, bằng cách bám chặt lấy Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc của con người, cuộc hành tŕnh cải thiện thực sự… Cuộc hành tŕnh cải thiện này có liên hệ đặc biệt tới việc tái cảm nhận cũng như việc tham dự nhiều hơn nữa vào bí tích Thống Hối, theo đúng với ư nghĩa sâu xa nhất của bí tích này” (Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 50).

                “Tội lỗi là việc làm dụng tự do Thiên Chúa đă ban cho con người tạo vật để họ có thể dùng nó mà yêu mến Ngài và yêu thương nhau” (Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, số 387); nó là việc chối từ sống sự sống của Thiên Chúa mà họ lănh nhận khi chịu phép Rửa Tội, khước từ việc để ḿnh được T́nh Yêu chân thực yêu thương: nhân loại thực sự có một quyền lực khủng khiếp trong việc làm trở ngại Thiên Chúa muốn ban tặng tất cả mọi sự tốt lành thiện hảo. Tội lỗi, phát xuất từ ư muốn tự do của con người (x.Mk.7:20), là việc vong bại trước t́nh yêu chân chính; nó đả thương bản tính con người và gây thương tổn đến t́nh đoàn kết nhân loại, bằng các thái độ, lời nói và việc làm hằn sâu tự ái (x. Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, các số 1849-1850). Chính trong thẳm cung con người là nơi tự do vươn lên tới t́nh yêu hay khép ḿnh lại trước t́nh yêu. Đó là một thảm kịch không ngừng diễn xuất nơi con người, thành phần thường ưa thích chọn lấy cho ḿnh cảnh làm nô lệ, ở chỗ bắt con người nam hay nữ của ḿnh phải chịu đựng các nỗi niềm sợ hăi, các mơ tưởng nhất thời, các thái độ sai lệch, khi tạo nên những ngẫu tượng làm chủ nhân tính con người nam hay nữ của ḿnh, cũng như tạo nên các ư thức hệ làm hạ giá nhân tính con người nam hay nữ của ḿnh. Chúng ta đọc thấy trong Phúc Aâm Thánh Gioan: “Ai phạm tội là làm nô lệ cho tội” (Jn.8:34).

                Chúa Giêsu đă kêu gọi mọi người: “Hăy hối cải và tin vào Phúc Aâm” (Mk.1:15). Mọi cuộc cải thiện chân chính đều được khơi nguồn từ ánh mắt Thiên Chúa đoái nh́n tội nhân. Đó là một ánh mắt biến thành một cuộc t́m kiếm đầy những yêu thương; đó là một cuộc khổ nạn, cho dù là một cuộc khổ nạn của Thập Giá; đó là một ư muốn thứ tha khiến cho tội nhân thấy con người nam hay nữ của họ vẫn c̣n được tôn trọng và yêu thương, ngược lại với t́nh trạng bại hoại nhận ch́m họ xuống, một ư muốn kêu mời họ quyết tâm sửa lại nếp sống của ḿnh. Đó là trường hợp của Lêvi (x.Mk.2:13-17), của Giakêu (x.Lk.19:1-10), của người đàn bà bị bắt phạm tội ngoại t́nh (x.Jn.8:1-11), của người trộm lành (x.Lk.23:39-43), của người phụ nữ Samaritanô (x.Jn.4:1-30): “Con người không thể sống mà lại không yêu. Họ măi là một hữu thể không thể hiểu được bản thân ḿnh, cuộc sống của họ vô nghĩa, nếu t́nh yêu không tỏ ḿnh ra cho họ, nếu họ không gặp được t́nh yêu, nếu họ không cảm thấy t́nh yêu và biến t́nh yêu thành của ḿnh, nếu họ không mật thiết dự phần vào t́nh yêu” (Thông Điệp Redemptor Hominis, đoạn 10). Con người có khám phá và cảm nghiệm được Thiên Chúa của t́nh thương và của ơn tha thứ mới có thể hoàn toàn sống trong trạng thái liên tục trở về cùng Thiên Chúa” (x. Thông Điệp Dies in Misericordia, đoạn 3).

“Chị hăy đi và đừng tái phạm tội nữa” (Jn.8:11): ơn tha thứ được ban tặng nhưng không, song con người được mời gọi để đáp ứng bằng việc dốc quyết canh tân đời sống ḿnh. Thiên Chúa qúa biết tạo vật của Ngài! Ngài không phải là không biết rằng t́nh yêu của Ngài càng bộc lộ cao cả th́ cuối cùng sẽ làm cho ḷng ghê tởm tội lỗi nổi dậy trong tội nhân. Bởi thế mà t́nh yêu của Thiên Chúa được tỏ bày là để liên tục ban ơn tha thứ.

Hấp dẫn biết bao dụ ngôn về người con hoang đàng! Từ lúc người con bỏ nhà ra đi, người cha sống trong một tâm trạng lo âu: ông chờ đợi, mỏi mong, mắt cứ trông về chân mây cuối trời. Oâng tôn trọng tự do của đứa con ḿnh, song ông phải khổ đau phiền muộn. Thế rồi, khi người con quyết tâm trở về, người cha thấy đứa con từ đàng xa liền đến đón gặp nó, gh́ chặt lấy nó trong ṿng tay của ḿnh và hớn hở bảo: “Hăy xỏ nhẫn – biểu hiệu cho giao ước - vào ngón tay cậu, mang y phục đẹp nhất - biểu hiệu cho sự sống mới – mặc vào cho cậu, xỏ giầy – biểu hiệu cho phẩm vị được phục hồi – vào chân cậu, và chúng ta hăy mừng rỡ hân hoan, v́ đứa con này của ta đă chết nay sống lại; bị thất lạc nay trở về!” (x.Lk.15:11-32).

 

5-             Trước khi lên cùng Cha, Chúa Giêsu đă ủy thác cho Giáo Hội thừa tác vụ ḥa giải (x.Jn.20:23). Bởi thế, việc thống hối chỉ có ở trong ḷng th́ chưa đủ để được ơn Thiên Chúa thứ tha. Việc được ḥa giải với Thiên Chúa là nhờ việc ḥa giải với cộng đồng giáo hội. Do đó, việc thú nhận tội lỗi phải được tỏ ra bằng một cử chỉ bí tích cụ thể: đó là cử chỉ ăn năn thống hối và xưng thú tội lỗi, với ư định cải thiện đời sống, trước mặt vị thừa tác viên của Giáo Hội.             

                Bất hạnh thay, ngày nay càng có nhiều người mất ư thức tội lỗi th́ họ lại càng ít chạy đến kêu cầu ơn Thiên Chúa thứ tha. Đó là căn nguyên của nhiều rắc rối và trục trặc của thời đại của chúng ta đây. Năm nay Cha mời gọi các con hăy tái khám phá ra nét mỹ lệ và tính chất phong phú của ân sủng nơi bí tích Thống Hối, bằng việc đọc lại một cách kỹ lưỡng hơn dụ ngôn người con hoang đàng, một dụ ngôn không nhấn mạnh nhiều đến tội lỗi của con người cho bằng đến tấm ḷng dịu dàng êm ái của Thiên Chúa cũng như đến t́nh thương của Ngài. Lắng nghe Lời Chúa trong tinh thần cầu nguyện, chiêm niệm, cảm mến và xác tín, các con hăy thưa với Thiên Chúa: “Con cần Chúa; con nương tựa vào Chúa để hiện hữu và sống động. Chúa c̣n mạnh mẽ hơn tội lỗi của con. Con tin vào quyền lực của Chúa hoạt động trong cuộc đời của con; con tin rằng Chúa có thể cứu con như con hiện giờ đây. Xin Chúa hăy đoái thương đến con. Xin Chúa hăy tha thứ cho con!”

                Các con hăy ngắm nh́n bản thân ḿnh từ “bên trong”. Tội lỗi, trước khi phạm đến lề luật hay đến tiêu chuẩn luân lư, th́ đă phạm đến Thiên Chúa (x.Ps.50/51:6), phạm đến anh chị em của các con cũng như phạm đến chính ḿnh rồi. Các con hăy đứng trước Chúa Kitô, Con duy nhất của Chúa Cha và là mô phạm cho tất cả mọi anh chị em. Chỉ có một ḿnh Người mới tỏ cho chúng ta thấy những ǵ chúng ta cần phải có trong mối liên hệ với Chúa Cha, với tha nhân, với xă hội, để chúng ta được sống an b́nh với chính bản thân ḿnh. Người tỏ cho chúng ta thấy những điều này nơi Phúc Aâm, một Phúc Aâm với Chúa Giêsu Kitô cũng chỉ là một. Trung thành với Phúc Aâm là mức đo lường ḷng trung thành với Chúa Kitô, hay ngược lại.

                Các con hăy tin tưởng chạy đến với bí tích Thống Hối: bằng việc xưng thú tội lỗi ḿnh là các con chứng tỏ các con muốn công nhận việc bất trung của các con và muốn chấm dứt việc làm bất trung này; bằng việc xưng thú tội lỗi, các con cũng nhận rằng các con cần phải cải thiện và ḥa giải để t́m lại an b́nh cùng sinh lực của việc làm con cái Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô; bằng việc xưng thú tội lỗi, các con c̣n nói lên t́nh đoàn kết với anh chị em ḿnh là những người cũng đă bị tội lỗi thử thách (x. Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, số 1445).

                Sau hết, các con hăy lấy ḷng biết ơn để lănh nhận việc linh mục xá tội cho các con. Đó là lúc Người Cha tuyên bố với tội nhân thống hối lời ban sự sống này: “Đứa con này của Ta hồi sinh lại rồi!”. Nguồn Mạch t́nh yêu tái sinh chúng ta và làm cho chúng ta có khả năng chế ngự cái tôi của ḿnh cũng như có khả năng yêu thương trở lại, mạnh mẽ hơn trước.

 

6-             “Các người phải kính mến Chúa là Thiên Chúa của các người hết ḷng, hết linh hồn và hết trí khôn các người. Đó là giới răn trọng và là giới răn thứ nhất. Giới răn thứ hai cũng như giới răn thứ nhất: Các người phải yêu mến tha nhân như chính ḿnh. Tất cả Lề Luật và các lời Tiên Tri đều hệ tại hai giới răn này” (Mt.22:37-40). Chúa Giêsu không nói rằng giới răn thứ hai là một với giới răn thứ nhất, mà là “như giới răn thứ nhất”. Vậy hai giới răn này không thể hoán chuyển nhau, như thể chúng ta có thể tự động làm thỏa đáng giới răn kính mến Thiên Chúabằng việc giữ giới răn yêu mến tha nhân, hay ngược lại. Mỗi giới răn đều có cái nổi của ḿnh và cả hai đều phải được tuân giữ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đặt hai giới răn này bên nhau để làm sáng tỏ cho mọi người thấy rằng, hai giới răn này có liên hệ chặt chẽ với nhau. Không thể nào thi hành giới răn này mà lại không giữ giới răn kia. “Việc hiệp nhất bất khả phân ly của chúng được Chúa Kitô chứng thực bằng lời Người nói và bằng chính đời sống của Người: sứ mệnh của Người đạt tới tuyệt đỉnh nơi Thập Giá để Cứu Chuộc chúng ta, một dấu hiệu của t́nh yêu bất phân chia đối với Chúa Cha và với nhân loại” (Thông Điệp Veritatis Splendor, đoạn 14).

                Để biết chúng ta có thực sự kính mến Thiên Chúa hay không, chúng ta phải coi xem chúng ta có thiết tha yêu thương tha nhân hay không. Và nếu chúng ta muốn xem phẩm chất của t́nh chúng ta yêu thương tha nhân, chúng ta phải hỏi chính ḿnh xem chúng ta có thực sự kính mến Thiên Chúa chưa. V́ “ai không yêu mến anh em ḿnh là thành phần họ thấy được cũng không thể kính mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy” (1Jn.4:20); và “căn cứ vào điều này mà chúng ta biết được rằng chúng ta yêu mến con cái của Thiên Chúa, đó là khi chúng ta kính mến Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài” (1Jn.5:2).

                Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Cha đă khuyên giục Kitô hữu “hăy chú trọng nhiều hơn đến giải pháp Giáo Hội ưa chuộng người nghèo và người lạc loài” (đoạn 51). Đây là một giải pháp “ưa chuộng” chứ không phải là một giải pháp bó buộc. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta yêu mến người nghèo, v́ họ cần phải được đặc biệt chú trọng chính bởi tính chất dễ bị tổn thương của họ. Như chúng ta qúa rơ, họ càng ngày càng nhiều, cho dù các sản vật của thế giới này là để cho mọi người đi nữa, thậm chí họ có ngay cả nơi các xứ sở được gọi là thịnh vượng! Mọi trường hợp nghèo khổ đều là những thách đố cho đức bác ái Kitô Giáo của mỗi một người Kitô hữu. Tuy nhiên, đức bác ái này cũng cần phải biến thành một việc dấn thân về xă hội cũng như về chính trị nữa, v́ những trường hợp cụ thể cần phải được cải tiến trong vấn đề nghèo khổ trên thế giới tùy thuộc ở những con người thiện chí nam nữ, thành phần xây dựng nền văn minh yêu thương. Những trường hợp cụ thể cần phải được cải tiến trong vấn đề nghèo khổ trên thế giới ấy là “các cấu tạo của tội lỗi”, là những ǵ không thể nào khắc phục được mà lại thiếu việc mọi người hợp tác với nhau, ở chỗ họ sẵn sàng “đánh mất ḿnh đi” cho tha nhân hơn là khai thác tha nhân, ở chỗ “phục vụ” tha nhân thay v́ đàn áp tha nhân (x.Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis, đoạn 38).

                Qúi bạn trẻ thân mến, Cha đặc biệt mời gọi qúi bạn hăy thực hiện những việc làm cụ thể đầu tiên của t́nh đoàn kết, cũng như của việc chia sẻ bên cạnh những ai nghèo khổ nhất và chia sẻ với những người nghèo khổ nhất. Qúi bạn hăy quảng đại tham gia vào một dự án nào đó, để nhờ thế, trong các xứ sở khác nhau, những bạn trẻ đương thời khác của qúi bạn cũng được dự phần vào các nghĩa cử huynh đệ và t́nh đoàn kết này. Thực hiện như vậy sẽ là cách qúi bạn “phục hồi” cho Chúa, nơi những con người nghèo khổ, tối thiểu một điều ǵ đó trong tất cả những ǵ Người đă ban cho qúi bạn là thành phần may mắn hơn họ. Thực hiện như thế qúi bạn c̣n cho thấy một cách cụ thể ngay được giải pháp nồng cốt qúi bạn lựa chọn trong việc hoàn toàn qui hướng cuộc đời ḿnh về Thiên Chúa và tha nhân.

 

7-             Mẹ Maria gồm tóm nơi con người Mẹ tất cả mầu nhiệm về Giáo Hội. Mẹ là “nữ tử đầy ơn phúc của Chúa Cha” (Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 54), người đă tự do chấp nhận và sẵn sàng đáp lại tặng ân của Thiên Chúa. Là “nữ tử” của Chúa Cha, Mẹ đă xứng đáng trở nên Mẹ của Con Ngài: “Xin hăy thực hiện nơi tôi theo như lời ngài” (Lk.1:37). Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, v́ Mẹ là nữ tử  hoàn hảo của Chúa Cha.

                Trong tâm hồn Mẹ không có một ước muốn nào khác ngoài ước muốn giúp cho các Kitô hữu dấn thân sống làm con cái Thiên Chúa. Là một người mẹ dịu dàng nhất, Mẹ liên lỉ dẫn họ đến với Chúa Giêsu, để theo Người, họ biết làm phát triển mối liên hệ của họ với Chúa Cha trên trời. Như ở tại tiệc cưới Cana, Mẹ kêu gọi họ tuân theo những ǵ Chúa Giêsu bảo họ làm (x.Jn.2:5), v́ Mẹ biết rằng đó mới là đường lối tiến tới nhà của “Người Cha giầu ḷng xót thương” (x.2Cor.1:3).

                Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 14, một ngày sẽ được cử hành trong năm nay tại các Giáo Hội địa phương, một Ngày Giới Trẻ Thế Giới cuối cùng trước ngày hẹn trọng đại cho Cuộc Mừng Kỷ Niệm. Bởi thế, nó có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc sửa soạn cho Năm Thánh 2000. Cha cầu nguyện cho mỗi một người trong các con để Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 14 này được trở thành một cơ hội cho việc gặp gỡ mới mẻ giữa các con với Chúa sự sống cũng như với Giáo Hội của Người.

                Cha kư thác cuộc hành tŕnh của các con cho Mẹ Maria, và Cha xin Mẹ làm cho ḷng các con được biết sẵn sàng lănh nhận ân sủng của Chúa Cha, để các con có thể trở nên các chứng nhân cho t́nh yêu của Ngài.

                Với ḷng qúi mến ấy, nguyện chúc các con một năm dồi dào trong đức tin và trong việc dấn thân truyền bá phúc âm, Cha ban phép lành cho tất cả các con bằng tấm ḷng của Cha.

 

 

Tại diện Vatican ngày 6 tháng 1 năm 1999, Lễ Chúa Hiển Linh.

Gioan Phaolô II.

 

(Chuyển dịch từ tuần san L’Osservatore Romano,

ấn bản Anh ngữ, số 3, ngày 20-1-1999, trang 3 và 9)

Tài liệu học hỏi

cho Đại Hội Giới Trẻ Tổng Giáo Phận Los Angeles lần III, 28/3/1999.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL.